Tên di sản : Nhà thờ họ Mai
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 180/QĐ - UBND
Giới thiệu
Đây là tòa kiến trúc với không gian mở gắn với thiên nhiên, gần với đời, đồng thời sự phân bố không gian trong nhà thờ cũng là biểu hiện chức năng vừa mang tính tâm linh, vừa phục vụ nhu cầu sinh hoạt cộng đồng.
Từ trục lộ liên huyện chạy qua xã, cạnh cổng là con đường dẫn vào nhà thờ rộng 2,2m đi sâu vào là sân với diện tích 9m x 10m cũng được lát gạch bát đỏ có thể chứa đựng được hàng trăm người trong các dịp lễ hội. Nhà thờ họ Mai kết cấu theo hình chuôi vồ gồm Tiền đường và Hậu cung, toàn bộ công trình được làm bằng chất liệu bê tông cốt thép giả gỗ. Bao bọc xung quang di tích là vườn và tường bao tiếp giáp với các hộ dân.
Tòa Tiền đường với 3 gian với kích thước chiều dài 8,1m, chiều rộng 5,1m, cao từ thượng lương xuống nền là 6m; vì bít đốc và gian Hậu cung dài 4,1m, rộng 3,7m, cao từ trần xuống nền là 3,5m được kiến trúc bằng tường xây trên cơ sở một bộ khung hình hộp. Tổng số cột của nhà thờ là 8 cột, đường kính cột là 0,35m, hai cột hiên đường kính 0,30m đỡ đầu “bẩy” hai vì gian giữa. Kích thước chia gian được lấy ở đầu cột, đầu cột là nơi khớp các xà, kẻ theo 3 chiều không gian.
Một bộ khung với các vì kèo để lộ ra phía trước một hàng hiên rộng 2m, gồm 5 bậc lên xuống. Hai cột giả đá ở hiện có kích thước đường kính 0,30m, cao 1,7m phía trên có bát đấu vuông (kích thước 0,30m x 0,30m, dày 0,25m) làm nhiệm vụ đỡ đầu kẻ bẩy mỗi vì. Thân cột tì lên chân tảng hình cầu vồng, nổi lên trên mặt nền 0,40m được giật cấp để đỡ thân cột. Kết nối với 2 tường hồi mặt trước là 2 cột nanh, chiều mỗi cạnh 0,45m x 45m, cao 3,5m, phía trên đỉnh cột đắp chim phượng đuôi xòe bốn hướng. Mặt cột được chạm gờ chỉ kích thước rộng 2cm, sâu 1cm, tạo nên hai khuôn hình dọc chữ nhật kéo dài gần hết thân cột, ở bên trong khuôn hình học này gờ chỉ chạy song song gặp nhau bởi đường vanh ở các góc.
Tòa Tiền đường có 4 vì, 2 vì giả đầu hồi để đỡ phần mái hồi, có 4 cột với t��ờng bít đốc phần vỉ ruồi phía đỉnh hồi để khớp giao nối các mái. Các vì vừa có chức năng chịu lực, vừa chia gian. Nếu tính từ trái sang vì 1 cách vì 2 là 2,7m, vì 2 cách vì 3 là 3,3m, vì 3 cách vì 4 là 2,7m. Hai gian hồi được xây vỉ ruồi, gian giữa của vì 2 và vì 3 rộng nhất là 3,3m lại có cột hiên đắp rồng đỡ kèo tàu mái. Các vì ở đây kết cấu theo lối kẻ suốt giá chiêng, kẻ bẩy hiên. Toàn bộ kết cấu phần vì để chống đỡ phần mái, đảm bảo một sự liên kết vững chắc trước những cơn bão, lụt lội. Lợp ngói mũi phủ trên mái vừa đè xuống sườn nhà cùng với hệ thống bờ dải, bờ nóc tạo thành một khối bền vững. Về hình thức phần mái thông qua kết cấu hệ thống tường bao, nằm độc lập nhưng được liên kết chung với phần mái ở sự gắn kết phần ở xà, vì...Đỉnh nóc trang trí lưỡng long chầu mặt nguyệt
Hậu cung thiết kế theo lối “tiền kê đầu, hậu bít đốc” có nghĩa là 2 mái trước được dựa vào tường và mái sau Tiền đường, tàu mái sau được bức tường hậu xây thẳng lên bít đốc.
Ở 2 đầu cột con của 2 vì kèo giữa được liên kết với 2 vì kèo hậu cung bằng hệ thống xà thượng, xà hạ. Hai vì hậu cung có 2 cột tạo ra lối đi trong hậu cung, hệ thống chịu lực là đầu quá giang tỳ lên tường.
Phần giao nối giữa tàu mái ở hậu cung và bái đường được xử lý hoàn chỉnh, bằng gờ đắp công phu, kỹ thuật khi các khoảng chảy của tàu mái trái ngược nhau.
Bức đại tự trong Hậu cung:
Phiên âm:
“Tổ triệu tôn bồi”,
Dịch nghĩa:
(Tổ tiên xây dựng, con cháu đắp bồi).
Hai bên ban thờ, phía dưới đại tự là câu đối:
Phiên âm:
“Tổ đức cao minh tự phúc ấm
Tôn thừa phụng sự thọ nhân hòa”.
Dịch nghĩa:
(Đức cao sang của tiên tổ là phúc ấm
Con cháu noi theo đều là những người hiền).
Cấu trúc thờ tự:
Hậu cung là nơi linh thiêng nhất cũng là nơi ngự linh vị Tướng quân Mai Thế Tế. Một bàn thờ gỗ trên đặt linh vị của tướng quân trên ngai thờ.
Ngoài ra còn có 02 linh vị hai bên sơn son thếp vàng đặt sau chân ngai của Hậu duệ họ Mai, trưởng các nhánh họ, cùng với lư đồng, bát hương đặt dưới chân bàn thờ như tăng thêm uy linh của thần bằng một hệ thống đồ thờ trong hậu cung so với nhà Tiền đường bên ngoài.
Việc có nhiều ban thờ các chi họ, xuất phát từ quan niệm “Uống nước nhớ nguồn” của người Việt để mỗi khi con người cần thấy cầu khấn có thể thắp hương để đáp ứng mọi yêu cầu của đời sống thực.